Ảnh Bệnh tiểu đường

Hiển thị các bài đăng có nhãn Bệnh tiểu đường. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bệnh tiểu đường. Hiển thị tất cả bài đăng
Xơ vữa mạch máu là bệnh có thể dễ phòng ngừa nếu phương án dự phòng được thực hiện không chỉ đúng lúc, mà càng sớm càng tốt. Hơn thế nữa, muốn bảo vệ mạch máu để giảm bớt gánh nặng cho trái tim thì biện pháp phòng bệnh cần được tiến hành liên tục sao cho các yếu tố gây xơ vữa mạch máu không tìm được cơ hội thuận tiện.

Dùng thuốc ngừa xơ vữa theo kiểu “xuân thu nhị kỳ” thì không uống thuốc nhiều khi còn tốt hơn. Không mong gì lật đổ được ngôi vị đứng đầu về tỷ lệ tử vong của bệnh tim mạch nếu thiếu chiến lược phòng bệnh lâu dài.Khoảng một nửa số người tiểu đường tử vong vì bệnh lý tim mạch (tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, tai biến mạch máu não, tắc mạch chân…) do đó bên cạnh việc điều chỉnh đường máu tốt, khắc phục và loại trừ các yếu tố nguy cơ tim mạch không thể tách rời với điều trị tiểu đường.

xo-vua-mach-mau
 so vo mach mau Xơ vữa mạch máu

so vo mach mau Xơ vữa mạch máu
Một số yếu tố nguy cơ tim mạch chính, mục tiêu cần đạt:

(Theo khuyến cáo của Hội tiểu đường Pháp)
– Huyết áp : < 130/80 mmHg
– Cholesterol toàn phần: < 5,2 mmol/l.
– LDL – Cholesterol : < 2,5 mmol/l.
– HDL – Cholesterol : > 1,2 mmol/l.
– Triglyceride : < 1,7 mmol/l.
– Tập thể dục thường xuyên
– Không hút thuốc lá
– Đường máu ổn định tốt: HbA1c < 6,5%.
– Tránh béo phì.
Một số biểu hiện của bệnh lý mạch máu:

Thiếu máu cơ tim: người tiểu đường mắc bệnh nhiều gấp 2 – 3 lần người không tiểu đường. Bệnh nguy hiểm vì nhiều khi không có triệu chứng điển hình là đau thắt ngực và lan ra cánh tay, quai hàm vì người tiểu đường hay có tổn thương thần kinh nên không nhận cảm được cảm giác này. Cần phải nghĩ đến thiếu máu cơ tim khi có các triệu chứng sau đây nếu chúng xuất hiện đột ngột và không giải thích được:
+ Rối loạn tiêu hóa và có thể đau thượng vị.
+ Khó thở khi gắng sức.
+ Mệt nhọc, đặc biệt khi gắng sức.
+ Rối loạn nhịp tim.
+ Rối loạn cân bằng đường máu không lý giải được căn nguyên.
+ Tụt huyết áp.
Chẩn đoán sớm: đo điện tim hàng năm dù không có triệu chứng.
Chẩn đoán khi nghi ngờ: làm lại điện tim, so sánh với các lần trước, siêu âm tim gắng sức, nghiệm pháp gắng sức, ghi hình tim phóng xạ, chụp mạch vành.
Điều trị: Loại bỏ các yếu tố nguy cơ đã nêu ở trên. Pháp đồ điều trị theo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa tim – mạch.

Tai biến mạch máu não: chủ yếu là tắc mạch nhỏ, chảy máu não ít gặp hơn ở người tiểu đường.
Triệu chứng điển hình là liệt nửa người, liệt mặt…
Nhưng nhiều khi bệnh biểu hiện sớm với các triệu chứng thoáng qua từ vài phút đến < 1 ngày: đang cầm gì đó bị rơi, khó điều khiển được tay cầm bát đũa, bước hụt, bại chân, chóng mặt, ngã không bị mất ý thức, hoặc khó nói, điếc thoáng qua.
Trong lúc bị tai biến mạch máu não, huyết áp có thể tăng vọt lên cao bù trừ, lúc này nếu dùng thuốc hạ huyết áp quá nhanh (dạng viên ngậm Adalat) rất nguy hiểm vì làm tai biến nặng lên. Huyết áp lúc này 170-180/90-100 mmHg không có gì là đáng ngại.
Chẩn đoán: Nếu nghi ngờ nên đến viện chụp cắt lớp sọ não có thể thấy được tổn thương.
Điều trị: theo ý kiến bác sĩ chuyên khoa hồi sức cấp cứu, bác sĩ thần kinh.
Lưu ý: các thuốc tăng cường tuần hoàn não, thuốc bảo vệ tế bào não không được chứng minh có tác dụng thậm chí có hại.

Biến chứng viêm tắc mạch máu xuống chân gây thiếu máu nuôi dưỡng. Biểu hiện: chuột rút, đi lại thấy đau bắp chân, đùi, khi nghỉ hết đau, da chân trở nên mỏng, màu tái, lạnh bàn chân, móng chân dày, không bắt được mạch ở chân khi khám.
– Chẩn đoán: siêu âm mạch máu, chụp mạch máu.

Ths, Bs Nguyễn Huy Cường

Xơ vữa mạch máu

Đăng bởi vào lúc
Không có một chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân tiểu đường nào chung cả, vì còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: người béo hay gầy, lao động thể lực hoặc không lao động, có biến chứng hay không và còn phụ thuộc vào kinh tế của từng bệnh nhân.
dinh-duong-cho-benh-nhan-tieu-duong
dinh duong cho benh tieu duong

dinh duong cho benh tieu duong Dinh dưỡng cho bệnh nhân tiểu đường

Điều trị bằng dinh dưỡng cho bệnh nhân tiểu đường

PGS.TS Tạ Văn Bình – Giám đốc Bệnh viện Nội tiết TƯ cho biết, chăm sóc và điều trị cho tất cả những người mắc tiểu đường  bằng dinh dưỡng là một phần rất quan trọng. Sẽ rất có lợi nếu ăn nhiều thức ăn có ít năng lượng như rau, nấm khô, dưa chuột…

Giữ hàm lượng đường glucoza trong máu ở mức bình thường và ngăn ngừa các biến chứng là việc tối quan trọng đối với bệnh nhân tiểu đường.

Thực phẩm giàu chất xơ làm chậm lại quá trình hấp thu đường vào máu, qua đó giữ cho mức đường trong máu không bị tăng đột ngột ngay sau bữa ăn, mà tiêu hóa hấp thu từ từ, giữ cho lượng đường trong máu không xuống quá thấp, có lợi cho quá trình điều trị bệnh. Nên có chế độ ăn giàu chất xơ, khoảng 30-40 g/ngày.

Chế độ ăn nên tuân theo quy tắc chung như sau:


Sử dụng carbohydrat (chất bột) từ nhiều nguồn khác nhau như ngũ cốc, trái cây, rau và chất béo đơn chưa bão hoà dầu ô liu, dầu hướng dương… chiếm từ 60 – 70% năng lượng.

Nên dùng các loại carbohydrat hấp thu chậm. Thành phần chất béo nên gia giảm tùy theo tình trạng cân nặng của bệnh nhân (để giảm cân nặng và duy trì cân nặng thích hợp).

Mục đích cơ bản của chế độ ăn là hạn chế chất béo bão hoà (mỡ động vật) dưới 10% tổng thu nhập năng lượng hàng ngày vào cơ thể và các loại chất béo đã qua chế biến (margarin, các loại dầu ăn có nguồn gốc hóa học hay đã qua chiên xào rồi dùng lại). Sẽ rất có lợi nếu ăn nhiều thức ăn có ít năng lượng như rau, nấm khô, dưa chuột…

Chất đạm chiếm khoảng 15– 20% nhu cầu năng lượng. Nên dùng các loại đạm có nguồn gốc thực vật, các loại đậu, đậu hũ. Đối với đạm động vật thì nên ưu tiên ăn cá.

Không nên dùng trực tiếp những loại thức ăn có thành phần đường hấp thu nhanh. Khi cần bổ sung chất đường, nên chọn các loại trái cây nhưng lượng trái cây cũng phải vừa đủ, không nên lạm dụng.

Nên ăn theo đúng bữa trong ngày (sáng, trưa, chiều). Không nên ăn nhiều bữa nhỏ hay ăn muộn. Tránh tối đa việc ăn khuya vì rất dễ làm đường huyết buổi sáng tăng (trừ trường hợp phải tiêm insulin buổi tối).

Bác sĩ Trần Quang Khánh, Bộ môn Nội tiết (Đại học Y dược TP.HCM) cho biết thêm nên ăn các thực phẩm được nấu tại nhà. Các loại thức ăn được chế biến bằng phương pháp luộc, hấp, tiềm, nấu canh, chứa ít chất độc hơn các loại chế biến ở nhiệt độ cao như xào, chiên, đặc biệt là chiên giòn. Đặc biệt cần chú ý không nên tùy tiện bỏ bữa ăn và sau đó ăn bù. Bỏ bữa ăn rất nguy hiểm, nhất là với bệnh nhân có tiêm insulin.

Một số loại trái cây có thể dùng

Đường trong trái cây là loại đường fructose làm tăng đường huyết chậm hơn đường sucrose (đường mía) và có thể dùng được.

Nên ăn những loại trái cây có màu đậm vì nó thường có nhiều loại vitamin và chất khoáng cần thiết cho tim mạch và sức khỏe nói chung. Bản thân chất đường, dù là đường trong trái cây hay đường mía đều làm tăng mức đường huyết và tăng nồng độ các loại mỡ không tốt cho tim mạch (tăng triglyceride và giảm HDL-cholesterol) vì vậy nên dùng với lượng vừa phải.

Tuy nhiên, khi ăn trái cây, nên bớt lượng chất bột trong bữa ăn hàng ngày với liều lượng tương đương. Tuyệt đối không được ăn trái cây để thay các loại thực phẩm khác.

Ngoài ra, vẫn có thể uống sữa và dùng các thực phẩm chế biến từ sữa. Tuy nhiên, nên dùng những loại sữa không đường, hay các loại sữa được chế biến đặc biệt cho bệnh nhân tiểu đường.

Việc ăn một cốc sữa chua không đường trước bữa ăn có thể làm giảm sự hấp thu chất bột đường và ít làm tăng đường huyết sau ăn. Bệnh nhân tiểu đường có thể dùng các loại sữa không đường, ít (hay không béo), hay sữa đậu nành.

Cũng có thể dùng các loại sữa được chế biến dành riêng cho người tiểu đường. Nên bỏ hẳn thói quen uống sữa trước khi đi ngủ. Vào những ngày mệt mỏi hay bị bệnh, có thể dùng những loại sữa đóng hộp sẵn thay thế bữa ăn (với năng lượng tương đương).Ngoài ra có thể ăn cháo, mì, hay bánh mì… Chi tiết về chế độ ăn cho người bị tiểu đường tham khảo bài viết Bị bệnh tiểu đường nên ăn như thế nào ?


Người bình thường tập thể dục, vận động nhiều để tăng sức khỏe, giảm cẳng thẳng trong công việc, cuộc sống. Nhưng với người bị tiểu đường thì tập thể dục không những kiểm soát đường huyết mà còn kiểm soát các yếu tố nguy cơ gia tăng biến chứng về sau.
Khoa học đã chứng minh rằng: Khi người bệnh biết cách chăm sóc bệnh tiểu đường, kiểm soát tốt đường huyết thì họ có thể sống an toàn như những người bình thường.

Con số ước tính: 10 người bị tiểu đường thì có 8 người bị mắc bệnh tim mạch và có tới 75% số ca tử vong ở người bệnh tiểu đường tuýp 2 là do bệnh tim mạch, chủ yếu là do nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não.

Cần một chế độ tập luyện đúng cách và thường xuyên:


- Trước hết Bệnh nhân nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi bắt đầu một chương trình tập vận động đặc biệt dành riêng cho từng người.

- Nếu trên 35 tuổi, bạn cần chọn lựa loại tập vận động thích hợp với cơ thể bạn (như yoga, dưỡng sinh, đi bộ, chạy, chơi các môn thể thao….)

che-do-tap-luyen-cho-benh-nhan-tieu-duong
đi bộ, chạy, chơi các môn thể thao
nguoi tieu duong nen tap luyen deu dan Chế độ tập luyện cho bệnh nhân tiểu đường

- Cần chú ý kiểm tra đường huyết trước và sau tập vận động để đánh giá.

- Với chỉ số đường huyết trên 250 mg/dl (13.9 mmol) và có xê-ton trong nước tiểu, hoặc đường huyết trên 300 mg/dl và không có xê-ton trong nước tiểu thì tốt nhất bạn nên nghỉ ngơi và không được vận động mạnh

Theo các chuyên gia về tiểu đường, họ khuyên nếu thường xuyên vận động sẽ đem lại rất nhiều lợi ích dưới đây cho những người bị bệnh tiểu đường:

- Đầu tiên, nó giảm đường trong máu và cải thiện khả năng sử dụng đường của cơ thể.

- Sau đó nó làm tăng tác dụng của insulin: khi tập vận động đều đặn, lượng Insulin cần thiết để tiêm có thể giảm.

- Đồng thời tập vận động làm tăng cholesterol tốt (HDL), bảo vệ tim mạch.

- Tập luyện đều đặn có thể cải thiện được huyết áp: khi huyết áp cao ở mức nhẹ và trung bình.

- Một tác dụng khác là làm tăng hiệu quả của tim, phổi, hệ thống tuần hoàn cả khi nghỉ cũng như khi làm việc. Do đó cải thiện khả năng vận chuyển oxy làm tăng độ dai bền và sức chịu đựng của cơ thể.

- Tăng cường sự linh hoạt của khớp: giúp bạn dẻo dai và giữ thăng bằng tốt.

- Kiểm soát trọng lượng cơ thể: giúp đốt bỏ năng lượng dư thừa (dự trữ ở tế bào mỡ) như thế sẽ giúp giảm cân hoặc duy trì trọng lượng cơ thể.

- Qua tập vận động bạn có nhiều năng lượng hơn, thư giãn hơn và bạn cảm thấy ít mệt hơn. Giúp chế ngự căng thẳng (stress) trong sinh hoạt hằng ngày.

- Cần kết hợp ăn kiêng tốt và tập luyện thể lực vừa phải để giảm 5-7% cân nặng và còn có thể làm chậm xuất hiện và phòng ngừa tiểu đường tuýp 2.

 Tóm lại, các bệnh nhân tiểu đường cần có một chế độ tập luyện phù hợp với từng người, từng lứa tuổi, sức chịu đựng, cân nặng….Tuy nhiên, khoa học đã thống kê lại rằng thông thường đi bộ 30 phút mỗi ngày, 3 đến 4 ngày trong tuần phù hợp với hầu hết người bệnh tiểu đường.

Hãy nhớ kiểm soát tốt đường huyết và tuân thủ lời khuyên của bác sĩ để có được một chế độ tập luyện thật hiệu quả và an toàn.


Có nhiều nghiên cứu về bệnh tiểu đường ở trẻ em, tuy nhiên mới đây một nghiên cứu của các nhà khoa học từ Anh, Phần Lan cho hay, trẻ dễ phát triển bệnh tiểu đường vào thời gian mùa đông, con số này đang gia tăng tại các nước phát triển vì vậy các bậc phụ huynh cần chú ý điều này.
tre-em-mac-tieu-duong
Trẻ em mắc tiểu đường

Trẻ em mắc tiểu đường vào mùa đông gia tăng

Để có thể hiểu rõ tiểu đường ở trẻ em, chúng ta cần biết tiểu đường loại 1 phát triển khi cơ thể không thể sản sinh ra bất kỳ insulin nào và bệnh này thường xuất hiện trước tuổi 40. Trong khi đó, cần phân biệt với tiểu đường loại 2, là một dạng cũng khá phổ biến khi cơ thể trở nên ít nhạy cảm với hormone.

Theo đó, các nhà khoa học tin rằng sự biến đổi lượng đường trong máu trong suốt những tháng lạnh hoặc số các bệnh lây nhiễm xuất hiện vào mùa đông cũng có mối liên quan nào đó. Họ còn chỉ ra rằng, thường thì các bé trai lại dễ bị phát triển bệnh theo điều kiện và theo mùa.

Với các trẻ nhỏ, vào các tháng mùa đông, rất dễ gặp loại tiểu đường tuýp 1, một dạng của tiểu đường khá phổ biến ở trẻ nhỏ.

Đó là một minh chứng cụ thể, qua đó để có được kết quả trên, các nhà nghiên cứu đã làm một cuộc khảo sát với 31.000 trẻ em ở 105 trung tâm điều trị thuộc 53 quốc gia. Sau nghiên cứu, họ đánh giá mối quan hệ giữa mùa với bệnh tật hiện lên rõ ràng ở 42 trung tâm điều trị.

Kết luận cho hay, ở những trung tâm này các ca trẻ em mắc bệnh tiểu đường thường tăng lên đáng kể vào thời gian mùa đông. Đây là kết quả được công bố trên tạp chí Tiểu đường. Trong bài này còn đề cập trẻ em trên 5 tuổi và các bé trai có nguy cơ nhiều hơn.

Bà Elena Moltchanova, một nhà thống kê của viện Sức khỏe quốc gia ở Helsinki, người dẫn đầu nghiên cứu cho hay “Bệnh tiểu đường loại 1 là một loại bệnh có thể được coi là theo mùa. Vì sự biến đổi về mùa cũng làm thay đổi lượng đường glucose và insulin trong máu”

Điều này có thể giải thích là do vào mùa đông mọi người có xu hướng ăn nhiều hơn và lại ít vận động, trong khi mùa hè, chúng ta còn có các ngày nghỉ và nhiều cơ hội hoạt động ngoài trời

 “Các kết quả của những nghiên cứu trước cũng đã đề cập đến bệnh tiểu đường, nhưng kết quả này giúp chúng tôi nhận ra nhiều điều, đặc biệt là hiểu được tại sao bệnh tiểu đường loại 1 phát triển”. Tiến sĩ Victoria King từ Viện nghiên cứu bệnh tiểu đường của Anh nhận xét

Những thống kê cho thấy, hiện tại ở Anh có hơn 2 triệu người bị tiểu đường loại 2, nguyên nhân chủ yếu do béo phì và khoảng 250.000 người bị tiểu đường loại 1. Các chuyên gia dự đoán số trẻ em dưới 5 tuổi ở châu Âu bị bệnh tiểu đường loại 1 cũng sẽ tăng gấp đôi từ năm 2005 đến 2020 nếu các em không có chế độ ăn uống và vận động hợp lý trong thời gian mùa đông.

Một báo cáo khoa học được đăng tải trên tạp chí dược New England đã nói rằng căn bệnh tiểu đường có thể được cải thiện bởi một phương pháp điều trị mới của con người.benh tieu duong 300x199 Phương pháp mới trong điều trị bênh tiểu đường
dieu-tri-benh-tieu-duong
Phương pháp mới trong điều trị bênh tiểu đường

Bệnh tiểu đường

khi các bệnh nhân được áp dụng các phương pháp điều trị theo kiểu đặt ra các mục tiêu mang tính tham vọng nhiều, thì nó cũng đồng nghĩa với họ có thể giữ được mức cholesterol và lượng đường trong máu ở mức thấp hơn những bệnh nhân khác.

Theo lời bác sỹ Caren G. Solomon, thì khi nghiên cứu này mới bắt đầu, thì các bác sỹ cũng không nghĩ rằng họ sẽ áp dụng phương pháp hơi kỳ cục này cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, sau đó mọi chuyện đã thay đổi. Hiệp hội về căn bệnh tiểu đường Mỹ (ADA) đã có kế hoạch tiến hành thực hiện phương pháp này trên các nhóm bệnh nhân.

Theo phương pháp này, các bệnh nhân được điều trị tập trung theo các nhóm, có cả các bác sỹ, y tá và các chuyên gia về dinh dưỡng. Tất cả đều tập trung cho bệnh nhân hướng đến những liệu pháp điều trị, cả về dược phẩm và cách sống khoẻ mạnh: như là các chế độ ăn kiêng và tập thể dục.

Đối lập với phương pháp này, các bệnh nhân không điều trị theo phương pháp này thì chỉ đến gặp bác sỹ đẻ tư vấn theo định kỳ.Tất cả các bệnh nhân nằm trong nhóm điều trị mới đều là những người có tỷ lệ rất cao về căn bệnh tim mạch và đèu có lượng albumin trong nước tiểu. Các bệnh nhân này được tiếp nhận một loại thuốc có dạng như chất ức chế ACE và các loại thuốc khác phù hợp với từng loại bệnh của các bệnh nhân.

Bác sỹ Oluf Pedersen, người theo đuổi nghiên cứu này nói rằng: các bệnh nhân không thuộc nhóm điều trị theo phương pháp mới sẽ chỉ nhận ACE nếu họ có những vấn đề về cao huyết áp. Các loại thuốc khác nhằm ức chế tỷ lệ cholesterol và huyết áp khác cũng được cung cấp, nhưng không thường xuyên và với liều thấp hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị theo phương pháp mới.

Ông Pedersen nói: “”Trên thực tế, khi bạn được cung cấp nhiều thuốc hơn, có nghĩa là những hy vọng của bạn và thái độ tích cực chữa chạy của bạn cũng thay đổi theo”". Trong số 160 bệnh nhân điều trị theo phương pháp mới thì có tới 80 người, có nghĩa là 50% bệnh nhân, đã có những chuyển biến tích cực hơn so với các bệnh nhân khác.

Bác sỹ Solomon nói rằng phương pháp mới này vẫn còn có những rào cản nào đó đối với các bệnh nhân tiểu đường, đặc biệt là đối với những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn. Bác sỹ Solomon nói: “”Liệu pháp này thực sự khá đắt tiền. Tuy nhiên, nó sẽ giúp cho quá trình điều trị được rút ngắn đáng kể, điều này sẽ có ý nghĩa giảm chi phí hơn đối với các phương pháp điều trị lâu dài như trước kia”".


Bệnh tiểu đường biểu hiện qua triệu chứng lâm sàng và kết quả xét nghiệm. Nếu chỉ dựa vào dấu hiệu bệnh lý kinh điển như thường được mô tả theo kiểu 3 nhiều  – ăn nhiều, uống nhiều và tiểu nhiều – thì sẽ bỏ sót nhiều trường hợp tiểu đường. vì khi bước vào thế kỷ 21, căn bệnh này đã biến thể nên ít khi xuất hiện với hình ảnh bệnh lý lớp lang thứ tự như trong sách vở.
nguyen-nhan-gay-benh-tieu-duong
Nguyên nhân gây bệnh tiểu đường
Nếu chỉ dựa trên đặc tính một thời của bệnh tiểu đường là người bệnh càng lúc càng khát nước, càng gầy mòn, đến độ thầy thuốc Đông y đặt tên cho căn bệnh này là chứng tiêu khát, thì càng dễ lầm vì nhiều người mắc bệnh tiểu đường tuy có thể uống nước nhiều hơn bình thường nhưng không hề ốm o, mà trái lại, béo phì! Khó hơn nữa cho việc chẩn đoán là tiểu đường trong nhiều trường hợp lại biểu lộ một cách âm ỉ với các triệu chứng đánh lạc hẳn hướng định bệnh như đau vai, đãng trí, mất ngủ, mệt mỏi, thay đổi cá tính…, khiến bệnh nhân mất nhiều thời gian do điều trị không đúng hướng. Do đó, không lạ gì những trường hợp phát hiện bệnh quá trễ do chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng.
Nếu không thể trông cậy vào tiêu chí chủ quan, cách tốt nhất là tiến hành xét nghiệm ngay cả khi không có dấu hiệu nghi ngờ. Thông thường, trong nước tiểu không có chất đường, thận chỉ bài tiết chất đường trong nước tiểu khi trong 24 giờ trước đó lượng đường trong máu cao hơn 180mg.

Như thế, nhiều người bị bệnh tiểu đường vẫn không có đường trong nước tiểu nếu đường huyết tuy tăng cao nhưng dưới 160mg. Thử đường trong nước tiểu tuy là phương pháp đơn giản, rẻ tiền và tiện lợi cho người bệnh nhưng không chính xác để định bệnh và không trung thực để theo dõi bệnh, ngoại trừ giá trị báo động cho người đã bị bệnh là đường huyết đã tăng cao, nếu như người bệnh không có phương tiện xét nghiệm nào khác.

Nếu theo định nghĩa, tiểu đường là bệnh lý do tăng lượng đường trong máu thì biện pháp cơ bản để xác minh căn bệnh này là phương pháp đo đường huyết. Trị số bình thường của đường huyết dao động trong khoảng 80-110mg. Cần lưu ý là nhiều phòng xét nghiệm áp dụng một đơn vị đo lường khác là mol (1 mol tương đương 1,8mg). Như thế, gọi là nghi ngờ bệnh tiểu đường khi lượng đường trong máu cao hơn 120mg hay 65 mol. Cho đến nay, đo đường huyết trong tĩnh mạch lúc bụng đói vẫn là phương pháp phổ biến. Phương pháp này tuy vậy không có giá trị tuyệt đối, vì:

- Chỉ phản ánh lượng đường trong máu vào thời điểm xét nghiệm. Không thể khẳng định bệnh nhân không bị bệnh tiểu đường khi trị số xét nghiệm trong định mức bình thường nếu chỉ thử máu theo kiểu xuân thu nhị kỳ, vì không ai dám quả quyết là lượng đường trong máu hôm qua cũng bình thường!

- Lượng đường trong máu lúc sáng sớm có thể tăng cao hơn bình thường, dù người thử máu chưa bị bệnh tiểu đường- có thể do nhịn đói suốt đêm trước, lo lắng suốt đêm hay ngày hôm trước đã dùng thuốc có tác dụng phụ làm tăng đường huyết.

Do đó, không thể dựa vào kết quả của một lần xét nghiệm để khẳng định, chẩn đoán một cách hời hợt. Trong tiến trình theo dõi bệnh tiểu đường trên người đã bị bệnh cũng vậy. Không thể đánh giá diễn tiến của bệnh nếu chỉ dựa vào vài kết quả thử máu.

Trong trường hợp nghi ngờ, cũng như để giảm tối đa độ ngờ của kỹ thuật xét nghiệm, nhiều thầy thuốc đặt nặng giá trị vào phương pháp đo đường huyết sau khi ăn. Với người không bị bệnh, cho dù có ăn ngọt bao nhiêu thì đường huyết vẫn trở về định mức bình thường trong vòng 2 giờ sau bữa ăn. Đường huyết càng cao sau bữa ăn và càng chậm trở về trị số bình thường cho thấy bệnh tiểu đường càng nặng.

Bên cạnh đó, còn một số xét nghiệm đặc hiệu, như HbA1C có độ chính xác không chỉ hơn nhiều lần phương pháp đo đường huyết trong tĩnh mạch mà còn thể hiện mức độ ổn định của đường huyết trong nhiều tuần trước thời điểm xét nghiệm. Trị số bệnh lý của HbA1C càng cao chứng tỏ đường huyết đã dao động rất nhiều trong thời gian trước đó. Nếu thầy thuốc quên, bệnh nhân nên cố nhớ để mạnh dạn yêu cầu nhà điều trị tiến hành thử nghiệm này nhằm có cái nhìn trung thực về diễn biến của bệnh tình thay vì tự “ru ngủ” với một vài kết quả xét nghiệm may mắn trong định mức bình thường.

Nói chung, phát hiện bệnh tiểu đường với phương tiện chẩn đoán hiện nay không khó, trừ khi: Không ít thầy thuốc bỏ sót căn bệnh này mỗi khi khám bệnh vì chưa đánh giá đúng mức mối nguy của bệnh tiểu đường; rất nhiều người bệnh cố tình tránh né sự thật, từ chối tầm soát với suy nghĩ thà không biết thì thôi. Tiểu đường vì thế vẫn còn là căn bệnh nặng!

Trong bài trước chúng ta đã đề cập đến những hiểu biết về bệnh tiểu đường tuy nhiên chưa đề cập đến bệnh tiểu đường có những biến chứng gì và hậu quả của nó ra sao. Với bài viết này chúng ta cùng tìm hiểu về những biến chứng thường gặp của bệnh tiểu đường và một số phương pháp bieu hien benh tieu duong Biến chứng của bệnh tiểu đường
bien-chung-cua-benh-tieu-duong
Biến chứng của bệnh tiểu đường
Biến chứng bệnh tiểu đường
I.Các biến chứng thường gặp của bệnh tiểu đường
1. Tổn thương thần kinh

Bệnh nhân có thể bị tổn thương thần kinh ngoại vi: Làm thay đổi cảm giác, giảm cảm giác, tê bì hoặc kim châm, yếu cơ. Các dấu hiệu này thường hay xảy ra ở bàn chân nên bàn chân dễ bị tổn thương gây loét có thể làm nhiễm trùng, hoại tử và phải cắt cụt chi để bảo toàn tính mạng.
2. Tổn thương thận

Do hàm lượng đường trong máu luôn cao gây tổn thương hàng triệu vi mạch tại thận dẫn đến suy giảm các chức năng quan trọng lọc, bài tiết của thận và suy thận.
3. Tổn thương mắt

Những mạch máu nhỏ tại võng mạc dễ bị nghẽn, vỡ trong lòng mắt gây ra tổn thương dẫn đến các bệnh lý về võng mạc. Mặt khác, tiểu đường cũng có thể gây đục thủy tinh thể, tăng nhãn áp, gây mù loà.
4. Bệnh lý mạch máu và tim

Biến chứng tim mạch ở bệnh nhân tiểu đường là cực kỳ nguy hiểm và rất thường gặp. Bệnh nhân rất dễ bị cao huyết áp, xơ cứng động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não gây bại liệt hoặc tử vong. Theo các số liệu thống kê cho thấy 65 % tỉ lệ tử vong ở bệnh tiểu đường là do tai biến mạch máu.
5. Nhiễm trùng
Bệnh nhân tiểu đường cũng rất dễ bị nhiễm trùng và có thể bị nhiễm trùng ở bất cứ bộ phận nào điển hình như: răng miệng, lợi, nhiễm trùng da gây mụn nhọt, nấm, nhiễm trùng đường tiểu bàng quang, thận…
Biến chứng của tiểu đường thực sự rất nguy hiểm nhưng chúng ta hoàn toàn có thể ngăn chặn các biến chứng trên nếu kiểm soát tốt hàm lượng đường trong máu.
II.Giải pháp an toàn phòng ngừa biến chứng tiểu đường

Hiện nay, số lượng người mắc tiểu đường ngày càng cao và gây những biến chứng khủng khiếp là một gánh nặng trong điều trị. Ngoài các biện pháp kiểm soát chế độ ăn, tập luyện và dùng thuốc Tây Y thì xu hướng sử dụng các loại thảo dược trong y học cổ truyền để điều trị tiểu đường ngày càng được quan tâm như mướp đắng, cam thảo, nhân sâm… Đặc biệt, Dây thìa canh

- Một loại thảo dược quý hiếm được đánh giá qua hàng trăm nghiên cứu trên thế giới cho tác dụng hạ đường huyết tốt, an toàn, ổn định đường huyết, không tác dụng phụ khi dùng lâu dài đã được các nhà khoa học trường Đại học Dược Hà nội tìm thấy và nghiên cứu tại Việt Nam. Đây thực sự là một giải pháp tối ưu đáng tin cậy để ngăn ngừa các biến chứng cho bệnh nhân tiểu đường.

Để sống vui vẻ và tự tin với bệnh tiểu đường, người bệnh hãy biết kiểm soát duy trì ổn định hàm lượng đường huyết trong máu mình ở mức độ an toàn. Việc làm này rất cần thiết và có thể nói quan trọng nhất trong các nguyên tắc điều trị bệnh. Vì vậy bạn hãy lựa chọn cho mình một giải pháp thật an toàn hiệu quả bền lâu để một cuộc sống khỏe mạnh.

Trương Dương
TS. Trần Văn Ơn – Trưởng bộ môn Thực vật Trường Đại học Dược Hà Nội


Chế độ ăn kiêng giữ một vai trò quan trọng trong việc điều trị bệnh tiểu đường. Có thể điều trị bằng chế độ ăn như tiểu đường (đái đường) nhẹ, tiểu đường  tiềm tàng hoặc kết hợp với các thuốc hạ đường huyết đối với các thể tiểu đường (đái đường) mức độ trung bình và nặng.
diabetes 300x300 Bị bệnh tiểu đường nên ăn như thế nào ?

Chế độ ăn kiêng bệnh tiểu đường

Ở bệnh nhân cân nặng bình thường (tiểu đường phụ thuộc Insulin hay không phụ thuộc Insulin), chế độ ăn kiêng phải được chuẩn về chất lượng (hạn chế gluxit và lipit) và cố định về số lượng.

Chế độ ăn kiêng cần được điều chỉnh theo từng bệnh nhân và theo mục tiêu điều trị của bác sĩ.
Trong những ngày đầu hay trong những tuần đầu tiên, thức ăn phải được cân để sau đó bệnh nhân biết cách ước tính trọng lượng của các loại thực phẩm một cách tương đối.

Chế độ ăn đáp ứng nhu cầu năng lượng: Nhu cầu tính theo thể trạng và tính chất lao động
Thể trạng       Lao động nhẹ       Lao động vừa      Lao động nặng

 Gầy                  35 Kcal/kg       40 Kcal/kg           45 Kcal/kg
Trung bình        30 Kcal/kg       35 Kcal/kg           40 Kcal/kg
Mập                  25 Kcal/kg       30 Kcal/kg            35 Kcal/kg

Chế độ ăn phải đảm bảo đầy đủ lượng protit, lipit cần thiết cho cơ thể trong đó lượng gluxit chiếm 50% lượng calo chung của khẩu phần, protid chiếm 15%, lipit 35%.

Một số áp dụng trên thực tế:

    Thực phẩm cung cấp gluxit : Bánh mì 40g, gạo 25g, mì sợi 30g, khoai tây 100g, khoai mì tươi 60g, đậu 40g, 1 trái cam vừa, 1 trái chuối vừa, 1 trái táo, 100g nho, 250g dâu tây, 1 trái thơm, 1 trái xoài vừa đều tương đương với 20g gluxit.
    Thực phẩm cung cấp protit: 100g thịt nạc tương đương với 15-18g protit
    Thực phẩm cung cấp lipit: 100g dầu ăn tương đương với 90-100g lipit.

1. Đối với thức ăn chứa tinh bột:

Nên ăn các loại bánh mì không pha trộn với phụ gia như bánh mì đen, gạo lứt, khoai tây, khoai sọ… lượng tinh bột đưa vào cơ thể người tiểu đường nên bằng khoảng 50-60% người thường. Sử dụng thường xuyên các loại ngũ cốc thô, chà xát ít vì lớp vỏ có chứa nhiều Vitamin và khoáng chất có lợi cho sức khỏe. Phương thức chế biến chủ yếu là luộc, nướng hoặc hầm chứ không nên chiên xào.

2. Đối với chất đạm:
Hạn chế tối đa thịt hộp, patê, xúc xích… thay vào đó hãy ăn cá, trứng sữa, các sản phẩm chế biến từ sữa, đậu… nên ưu tiên cá mòi và cá chích vì trong hai loại cá này có chứa chất béo có lợi cho việc chống lại bệnh tim mạch và ung thư. Người tiểu đường (đái đường) có thể ăn các loại thịt lợn, thịt bò đã lấy sạch mỡ. Tránh tuyệt đối da gà, da vịt bởi nó có chứa rất nhiều cholesterol. Cũng như thực phẩm chứa tinh bột, nên chọn cách chế biến là luộc, kho, nướng hơn là chiên.

3. Đối với chất béo:

Phải hết sức hạn chế mỡ, các bác sĩ khuyến cáo lượng cholesteron đưa vào phải dưới 300mg mỗi ngày và lượng mỡ bão hòa phải thay bằng các loại dầu thực vật như dầu đậu nành, dầu olive, dầu mè

4. Rau, trái cây tươi:

Một ngày bệnh nhân tiểu đường (đái đường) nên ăn khoảng 400 gram rau và trái cây tươi, rau quả tươi vừa có tác dụng chống lão hóa, vừa là thức ăn bổ sung vitamin, muối khoáng tốt nhất. Nên ăn cả xác hơn là ép lấy nước uống, chất xơ ở rau quả là thành phần quan trọng làm giảm đường, làm chậm hấp thu đường và đỡ tăng đường sau khi ăn. Tuy nhiên, không phải loại trái cây nào cũng tốt, người mắc bệnh tiểu đường  phải tránh các loại trái cây ngọt như nho, xoài, na, nhãn…

5. Chất ngọt

Chất ngọt là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh đái tháo đường, nó làm trầm trọng thêm quá trình bệnh lý, tăng các biến chứng nặng nề của bệnh. Lời khuyên của bác sĩ là tránh xa tuyệt đối các loại bánh kẹo, nước ngọt có ga, rượu… Bệnh nhân tiểu đường  nên sử dụng các chất ngọt nhân tạo có thể thay đường trong nước uống như Aspartam và sacharine vừa giúp làm giảm lượng đường ăn vào mà vẫn giữ được ngon miệng.

Giữ vững thành phần và thời gian ăn là quan trọng, kết hợp với thể dục thể thao thường xuyên chính là phương pháp điều trị bệnh hiệu quả nhất. Tuy nhiên, chế độ ăn cụ thể phải dựa trên từng bệnh nhân, cân nặng, lượng đường trong máu, bệnh đã có các biến chứng hay chưa. Do vậy cần tham khảo ý kiến của bác sĩ đang theo dõi và điều trị.
Ăn kiêng như thế nào?

-Thực phẩm cấm: Đường, mía, tất cả các loại sữa chế biến, cà phê, kẹo, đá chanh, trái cây đóng hộp, nước quả ép, kẹo, mứt, chè, mỡ.

-Thực phẩm hạn chế: Cơm, mì xào, hủ tiếu, bánh canh, bánh mì, các loại khoai ( khoai lang, khoai mì…), bánh bích qui, trái cây ngọt.

-Thực phẩm không hạn chế: Thịt, tôm, cá, cua, mắm, rau, tất cả các loại đậu.

Các thực phẩm như trái cây (nhất là lê, táo), rau, đậu, ngũ cốc có thể cung cấp cho cơ thể một lượng đường chậm (tức đường phải qua quá trình tiêu hóa mới trở thành đường hấp thu vào cơ thể) điều đó sẽ giúp cho lượng đường trong máu không quá cao hoặc quá thấp đồng thời cung cấp chất xơ có ích và chất khoáng chứa vcom kiểm soát lượng đường trong máu.

Ở bệnh nhân tiểu đường, đường huyết thường tăng cao sau bữa ăn. Vì thế nên cho bệnh nhân ăn nhiều lần và phân bố lượng calo mỗi bữa cho thích hợp.

Nếu cần:
    1200-1600 Kcalo/ngày thì nên chia ba bữa theo tỉ lệ 1/3 – 1/3 – 1/3
    2000-2500 Kcalo/ngày thì nên chia bốn bữa theo tỉ lệ 2/7 – 2/7 – 2/7 – 1/7
    Trên 2500 Kcalo/ngày thì nên chia năm bữa theo tỉ lệ 2/9 – 2/9 – 2/9 – 2/9 – 1/9

Trường hợp đang dùng thuốc hạ đường huyết thì nên ăn trước khi ngủ hay thêm bữa vào những bữa ăn chính.

Các thực phẩm giàu chất xơ sẽ làm giảm đỉnh cao đường huyết sau khi ăn và có thể kéo dài sự hấp thu của chất đường. Chất xơ cũng còn có tác dụng giữ nước, hấp thu axit mật, thường có trong cám ngũ cốc, khoai tây, rau xanh, trái cây nhất là các loại họ đậu.

Vì thế người ta khuyên nên ăn gạo không chà kỹ quá. Nên hạn chế rượu vì rượu có thể thúc đẩy hạ đường huyết trên bệnh nhân đang điều trị với thuốc hạ đường huyết.
Trương Dương

Bị thừa cân, ít vận động, nạp calo nhiều, ăn nhiều đường và chất béo là lý do làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Theo trang tin healthmeup.com dẫn nguồn từ các chuyên gia dinh dưỡng Ấn Độ, có một số loại thực phẩm có thể giúp ngừa bệnh tiểu đường.
Quế

cay-que
cay que 300x189 Dinh dưỡng ngăn ngừa tiểu đường
Quế dinh dưỡng ngăn ngừa tiểu đường

Quế có rất nhiều lợi ích cho sức khỏe. Nó giúp giảm đường huyết. Quế cũng có công dụng giảm lượng chất béo triglyceride, cholesterol xấu LDL và cải thiện độ nhạy insulin. Có thể rắc một chút bột quế vào cà phê hoặc bánh mì nướng.

Nghệ

nghe
củ nghệ 288x300 Dinh dưỡng ngăn ngừa tiểu đường
Củ nghệ dinh dưỡng cho bệnh tiểu đường

Nhiều nghiên cứu xác nhận curcumin, một hợp chất được tìm thấy trong củ nghệ, có thể giúp trì hoãn bệnh tiểu đường.

Dâu tây:
không chỉ ngon mà còn có công dụng điều trị bệnh. Các nhà khoa học cho biết, ăn dâu tây giúp kích hoạt một loại protein trong cơ thể làm giảm cholesterol xấu LDL và lipid trong máu. Cả hai yếu tố này góp phần gây bệnh tiểu đường. Ngoài ra, các nhà khoa học tiến hành thí nghiệm trên chuột và nhận thấy rằng ăn dâu tây giúp giảm lượng đường trong máu.

Phô mai và sữa chua

Ở đây là loại phô mai và sữa chua ít chất béo. Các chuyên gia tin rằng những vi khuẩn lành mạnh có trong các sản phẩm sữa lên men góp phần ngừa bệnh tiểu đường.

Rượu vang đỏ

ruou-vang-do
ruou vang do1 Dinh dưỡng ngăn ngừa tiểu đường
Rượu vàng đỏ dinh dưỡng ngăn ngừa tiểu đường

Resveratrol, một hợp chất có trong rượu vang đỏ giúp cải thiện chức năng của đường trong máu bằng cách điều chỉnh nội tiết tố insulin. Tuy nhiên, các chuyên gia khuyên nên uống rượu vang đỏ ở mức điều độ.

Táo

Anthocyanin, một hợp chất có nhiều trong táo, có tác dụng điều chỉnh lượng đường trong máu.

Cải bó xôi giàu chất dinh dưỡng giúp cải thiện sức khỏe. Một nghiên cứu ở Anh cho thấy ăn cải bó xôi mỗi ngày giúp giảm 14% nguy cơ bị tiểu đường.


Khi có những biểu hiện bất thường như hoa mắt, chóng mặt, hay nổi cáu, mệt mỏi… rất nhiều người chủ quan cho đó là những biểu hiện bình thường. Tuy nhiên, những triệu chứng đó còn là dấu hiệu của bệnh huyết áp thấp . Bên cạnh những biến chứng nguy hiểm do tăng huyết áp thì tụt huyết áp cũng cần được đặc biệt quan tâm.
cach-xu-ly-nhanh-khi-bi-tut-huyet-ap
huyet ap thap Cách xử lý nhanh khi bị tụt huyết áp
Xử lý huyết áp thấp

Biểu hiện của tụt huyết áp là: Mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, mệt lả và rất muốn được nghỉ ngơi, khó tập trung và dễ nổi cáu, có cảm giác buồn nôn, suy giảm khả năng tình dục, da nhăn và khô, kèm theo rụng tóc, vã mồ hôi lạnh, thở dốc, nói như hụt hơi, nhất là sau khi leo lên cầu thang hay làm việc nặng, khi thay đổi tư thế có thể choáng váng, xây xẩm mặt mày.

Thường các triệu chứng này hay đi kèm với các triệu chứng của các bệnh như: Tiêu chảy, đau bụng, sốt cao, lạnh run hay các bệnh mạn tính khác: Viêm phế quản mạn, xơ gan, suy tim, ung thư, tiểu đường.
Các cách xử lý nhanh tụt huyết áp:

Về tư thế:

Khi người bệnh có dấu hiệu tụt huyết áp, tuỳ vào vị trí hãy nhanh chóng để người bệnh ngồi ở nơi thoáng mát hoặc đặt người bệnh nằm trên giường, đầu hơi thấp, nâng cao hai chân. (Nếu có dụng cụ đo huyết áp hãy đo huyết áp hiện tại của người bệnh để có phương pháp xử lý thích hợp).

Thực hiện sơ cứu:

Hãy cho người bệnh uống 2 ly nước tương đương 480 ml, vì uống nước giúp điều tiết huyết áp. Hoặc có thể cho người bệnh uống trà gừng, nước sâm, cà phê, nước chè đặc, ăn thức ăn đậm muối, ăn sô-cô-la, rau cần tây, nước nho…
Sử dụng thuốc hỗ trợ huyết áp:

Khi bị bệnh huyết áp, người bệnh phải lưu ý luôn mang theo hoặc dự phòng thuốc hỗ trợ huyết áp như heptamyl, coramin… để sử dụng khi cần thiết. Theo khảo sát gần đây của Đại học Havard (Mỹ), sô-cô-la chứa nhiều flavon giúp bảo vệ thành mạch máu, vì vậy sô-cô-la được mệnh danh là vị thuốc cấp cứu bỏ túi cho những người bị tụt huyết áp.
Phương pháp xoa bóp bấm huyệt:

Day huyệt thái dương: Khi xuất hiện dấu hiệu tụt huyết áp hãy dùng hai ngón tay day vào huyệt thái dương (nằm ở cuối mi mắt). Lưu ý: Đặt phần tay mềm của ngón vào đúng huyệt, cần day đi day lại với mức độ mạnh dần. Thực hiện động tác này từ 20-50 lần.
Vuốt trán:

Dùng hai ngón tay vuốt từ giữa trán sang hai bên đến cuối huyệt thái dương. Lặp đi lặp lại động tác này 30 lần.

Phòng ngừa tụt huyết áp, phòng bệnh mùa hè dễ mắc như tiêu chảy, sốt xuất huyết. Khi mắc bệnh cần phải đến ngay cơ sở y tế khám và điều trị để tránh những biến chứng có thể xảy ra, trong đó tụt huyết áp luôn luôn đồng nghĩa với tiên lượng nặng của bệnh.

Người bệnh sốt kéo dài từ 10 ngày trở lên, nhất thiết phải đến bệnh viện để bác sĩ thăm khám và điều trị, tránh bỏ sót những bệnh nhiễm khuẩn nặng như: Nhiễm khuẩn đường mật, áp xe phổi, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn mà khi tụt huyết áp có nghĩa là bệnh đã chuyển sang giai đoạn nặng (sốc nhiễm khuẩn). Ở giai đoạn này, mặc dù điều trị rất vất vả và tốn kém nhưng nguy cơ tử vong lại rất cao.
Người bệnh tăng huyết áp đang được điều trị bằng thuốc, cần thông báo ngay cho bác sĩ điều trị những dấu hiệu bất thường của mình khi huyết áp đổi tư thế để được phát hiện kịp thời triệu chứng tụt huyết áp tư thế. Bác sĩ sẽ điều chỉnh lại thuốc cũng như liều lượng thuốc đang dùng, đồng thời sẽ đưa ra những lời khuyên phù hợp cho bệnh nhân.
BS.NGUYỄN CHUNG
Đái tháo đường, một căn bệnh đáng sợ của xã hội hiện đại. Dưới đây là những loại thực phẩm giúp ngăn ngừa bệnh đái tháo đường
Mục tiêu chung chế độ ăn
thuc pham ngan ngua benh dai thao duong Thực phẩm phòng ngừa bệnh đái tháo đường

thuc-pham-phong-ngua-tieu-duong
Thực phẩm phòng ngừa bệnh đái tháo đường
    Đưa mức đường huyết về càng gần bình thường càng tốt.

    Bảo vệ tim mạch, kiểm soát huyết áp, chống lại các loại chất béo có hại cho tim mạch.
    Giữ cân nặng ở mức hợp lý.
    Ngăn chận hay làm chậm xuất hiện các biến chứng của đái tháo đường.
    Bảo vệ sức khỏe, giúp người bệnh cảm thấy luôn luôn khỏe mạnh, lạc quan và tuân thủ tốt chế độ ăn.

Tuy nhiên không thể có một chế độ ăn áp dụng chung cho mọi người mà cần phải xây dựng một chế độ ăn thích hợp cho từng cá nhân. Chế độ ăn riêng cho từng cá nhân phụ thuộc vào các yếu tố sau:

    Mức cân nặng, giới tính
    Nghề nghiệp (mức độ lao động nhẹ, trung bình, nặng).
    Thói quen và sở thích.

1. Rau củ màu cam và xanh

Theo nghiên cứu của đại học Harvard được tiến hành trên 38.000 phụ nữ cho thấy rằng ăn các loại củ như cà rốt, khoai mỡ hoặc khoai lang sẽ giảm 27% nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2, dùng 1,5 khẩu phần rau lá màu xanh sẫm hoặc cải xoăn giảm 14% nguy cơ mắc tiểu đường.

2. Uống đồ uống có cồn điều độ

Theo các nghiên cứu thuộc đại học Boston với 8.100 người, trong số đó những người uống khoảng 20 chén đồ uống có cồn trong 1 tháng có độ kháng insulin tốt hơn 66% so với những người không uống rượu bia.

Giới hạn an toàn cho phép là 1 chén (ly) rượu với phụ nữ và 2 chén (ly) với nam giới/1 ngày.

3. Ngũ cốc

Nghiên cứu của đại học Harvard với 91.000 phụ nữ đã thấy rằng ăn trung bình 10g ngũ cốc mỗi ngày sẽ giảm 36% nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2.

4. Không uống soda và không ăn nhiều thịt

Theo các nghiên cứu của đại học Harvard thì: với những người uống nhiều nước ngọt và soda sẽ tăng thêm 14% nguy cơ bệnh tiểu đường type 2.

Ngoài ra nên hạn chế sử dụng các loại thịt đỏ và chất béo từ động vật.

5. Các loại hạnh nhân

Nên ăn mỗi ngày khoảng 39Gr hạnh nhân, 5 lần/tuần và sử dụng các thực phẩm có lượng Magiê cao.

Với tỉ lệ tăng từ 8-10% mỗi năm, Việt Nam đang là nước có tỷ lệ gia tăng bệnh tiểu đường nhanh nhất thế giới. Sau đây là những lý do tại sao bạn nên đi xét nghiệm xem mình có đang mắc loại bệnh nguy hiểm này không.
Ở Việt Nam, số người mắc bệnh tiểu đường hiện có gần 5 triệu người, trong đó có tới 65% người bệnh không hề biết mình mắc bệnh.
xet nghiem benh tieu duong Tại sao bạn nên đi xét nghiệm tiểu đường


xet-nghiem-tieu-duong
xét nghiệm bệnh tiểu đường
xét nghiệm bệnh tiểu đường

Tiểu đường thường không hề thể hiện triệu chứng ra bên ngoài

Đường trong máu được coi như một chất độc hại cho cơ thể nhưng hầu như không ai có thể cảm nhận được nó tăng lên như thế nào. Có những người mắc tiểu đường loại 2, khi lượng đường máu chạm tới ngưỡng nguy hiểm, sẽ gặp phải những biểu hiện như đi tiểu nhiều lần, sụt cân, mắt mờ. Khi lượng đường máu tăng quá cao, bệnh nhân có thể rơi vào tình trạng hôn mê. Tuy nhiên cũng có rất nhiều người mắc bệnh mà không có bất kì triệu chứng nào. Vậy nên, phòng còn hơn chống, tốt nhất là đừng để thấy cơ thể có vấn đề rồi mới đi kiểm tra sức khỏe.

Kiểm tra tiểu đường rất đơn giản

Có rất nhiều cách để kiểm tra xem bạn có mắc tiểu đường hay không, phần lớn những cách này chỉ yêu cầu thử máu đơn giản.

Phát hiện bệnh sớm có thể tạo ra sự khác biệt lớn


Những người có biểu hiện tiền tiểu đường có thể trì hoãn hoặc phòng ngừa mắc bệnh bằng cách thay đổi thói quen sống. Tiền tiểu đường là tình trạng lượng đường trong máu tăng cao (tới mức có thể gây hại cho cơ thể) tuy nhiên chưa cao đến mức để được kết luận mắc tiểu đường loại 2. Loại bệnh này rất phổ biến, cứ 3 nam giới là có 1 người mắc bệnh. Tuy nguy hiểm nhưng chỉ cần thay đổi thói quen ăn uống lành mạnh hơn, vận động nhiều hơn là có thể giảm nguy cơ tiền tiểu đường biến chứng thành tiểu đường.

Có rất nhiều cách để giữ gìn sức khỏe

Sau khi kiểm tra, nếu phát hiện bị nhiễm tiểu đường loại 2, đừng quá hoảng loạn. Trên thị trường hiện có rất nhiều các loại thuốc mới cũng như khoa học đã nghiên cứu không ít các cách có thể giúp bệnh nhân tiểu đường giảm được lượng đường trong máu. Bệnh nhân tiểu đường thường có thể được điều trị bằng cách dùng thuốc và tập thói quen sống lành mạnh. Với những người nhiễm tiểu đường loại 1, cần dùng insulin liên tục, tiểu đường loại 2 thì không cần như vậy. Bằng các chế độ ăn uống hợp lý, tập thể thao và dùng thuốc, chỉ cần kiểm soát được lượng đường trong máu là có thể giảm nguy cơ biến chứng ở bệnh nhân tiểu đường.


 Tags: Benh vien noi tiet, bệnh viện nội tiết
Những thực phẩm bên trong gian bếp nhà bạn có thể trở thành vũ khí hữu hiệu ngừa bệnh tiểu đường, hoặc giảm bớt bệnh nếu chẳng may bạn đã mắc căn bệnh này.

Thường không ai thích những vị đắng nhưng theo các chuyên gia sức khỏe Ấn Độ, dùng nước khổ qua khi bụng đói giúp ngừa bệnh tiểu đường.
Ngừa bệnh tiểu đường từ gian bếp


ngua-benh-tieu-duong-tu-gian-bep
Thay đổi thói quen ăn uống có thể giúp ngừa tiểu đường – Ảnh: Shutterstock
Quả ổi là loại trái cây mà những người bị tiểu đường có thể ăn vì có hàm lượng vitamin C và chất xơ cao.

Tuy nhiên, theo trang tin healthmeup.com, một cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy, ăn ổi cả vỏ có thể làm tăng lượng đường trong máu. Do đó, theo các chuyên gia, bạn nên gọt bỏ vỏ trước khi ăn ổi.

Nếu bạn không thể thêm đường vào cà phê hoặc trà, hãy thử dùng mật ong.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, cà phê đen không có đường giúp giảm nguy cơ bị tiểu đường típ 2.

Trà xanh cũng là lựa chọn thích hợp cho bệnh tiểu đường vì giúp hạ đường huyết và cải thiện khả năng tiếp nhận insulin trong cơ thể.

Ngoài ra, bạn cũng nên đi lại nhiều.

Huỳnh Thiềm – TNO


 Tags: Benh vien noi tiet, bệnh viện nội tiết
Tiểu đường là một nhóm bệnh rối loạn chuyển hóa cacbohydrat khi hoóc môn insulin của tụy bị thiếu hay giảm tác động trong cơ thể, biểu hiện bằng mức đường trong máu luôn cao; trong giai đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu ban đêm và do đó làm khát nước. Ở bài viết này chung tôi sẽ giới thiệu đến các bạn các triệu chứng thường thấy khi bị tiểu đường
benh tieu duong Triệu chứng bệnh tiểu đường

trieu-chung-benh-tieu-duong
Triệu chứng của bệnh tiểu đường


      Đi tiểu nhiều:Lượng nước tiểu thường từ 3-4 lít hoặc hơn trong 24 giờ, nước trong, khi khô thường để lại vết bẩn hoặc mãng trắng.
        Tiểu dầm ban đêm do đa niệu có thể là dấu hiệu khởi phát của đái tháo đường ở trẻ nhỏ.
        Thèm ăn và trở nên ăn nhiều. Thường xuyên khát nước.
        Sụt cân nhanh. Thường xuyên nhiễm trùng hoặc các vết thương không lành
        Nhìn mờ. Tê hoặc ngứa ran ở tay và chân. Da khô, ngứa.
        Theo Liên đoàn tiểu đường quốc tế, 40% bệnh nhân bị nghẽn hơi thở (từ 15- 20 giây) khi ngủ có nguyên nhân từ bệnh tiểu đường, trong khi đó, có khoảng 23% bệnh nhân tiểu đường chắc chắn mắc bệnh nghẽn thở, gây ngáy khi ngủ.
        Nhiễm nấm men: Tiến sĩ Collazo-Clavell giải thích, bệnh tiểu đường là một trạng thái ức chế miễn dịch nên rất nhạy cảm với các bệnh nhiễm trùng, phổ biến nhất là nấm men (candida), vì loại nấm này phát triển mạnh trong môi trường nhiều đường. Đặc biệt, phụ nữ dễ bị nhiễm candida ở âm đạo.
        Ở nữ, bên ngoài bộ phận sinh dục thường ngứa ngáy và dẫn đến nhiễm trùng.
        Ứ đọng tiểu khi đi đi tiểu, bị tiêu chảy hoặc táo bón.
        Cơ thể bị phù lên.
        Giai đoạn đầu có thể bị xơ vữa động mạch, đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim.
        Người có thể béo phì hoặc gầy yếu đi nhanh chóng.

 Lưu ý: Khi bạn có những biểu hiện trên, bạn nên đến bác sĩ kiểm tra và tiến hành xét nghiệm khi có những triệu chứng trên.
 Tags: Benh vien noi tiet, bệnh viện nội tiết,
Đái tháo đường tuyp 1 là gì?
Bệnh đái tháo đường (bệnh tiểu đường) type 1 còn gọi là bệnh đái tháo đường phụ thuộc insulin hay bệnh đái tháo đường tự miễn, có nghĩa là cơ thể tiêu diệt các tế bào sản xuất insulin của chính mình. Nói cụ thể hơn, tuyến tụy sản xuất không đủ insulin (thiếu insulin tương đối hay tuyệt đối so với nhu cầu của cơ thể) hoặc do tế bào không sử dụng được insulin, làm tăng đường huyết và tiểu ra đường.

Tế bào sản xuất insulin

Bệnh đái tháo đường type 1 là do cơ chế tự miễn, tức tuyến tuỵ bị tấn công và phá hủy bởi chính cơ thể, làm cho cơ quan này không còn khả năng sản xuất insulin nữa. Kháng thể bất thường này được thành lập ngay trong cơ thể người bệnh tiểu đường type 1, bản chất là protein trong máu, một phần trong hệ thống miễn dịch của cơ thể.
Trong bệnh lý miễn dịch, cũng như ở bệnh nhân bị đái tháo đường type 1, hệ thống miễn dịch sản xuất ra kháng thể trực tiếp chống lại chính mô của người bệnh.
Gen gây bệnh đái tháo đường type 1 có nhiễm sắc thể (AND) số 11 giống nhau ( nhiễm sắc thể là nơi lưu trữ mọi thông tin di truyền bằng các nucleotic trong tế bào). Tiếp xúc, nhiễm một số virus như quai bị, Coxakies virus hay các độc chất trong môi trường có thể khởi phát đáp ứng kháng thể một cách bất thường, là nguyên nhân làm hư tổn tế bào tuỵ tiết ra insulin.
Đối tượng dễ mắc bệnh tiểu đường tuyp 1: Đái tháo đường type 1 có xu hướng xảy ra ở người trẻ, thường dưới 30 tuổi.
Bệnh tiểu đường type 1 có di truyền?
Bệnh tiểu đường type 1 có thể truyền từ mẹ sang con. Đó là kết luận của một nghiên cứu trên chuột của Mỹ, đăng trên tạp chí Y khoa Tự nhiên tháng 4/2005.
Khi tiến hành nghiên cứu trên những con chuột biến đổi gene, nhóm nghiên cứu dưới sự chỉ huy của Giáo sư Ali Naji, Đại học Y Pennsylvania (Philadelphia), phát hiện ra rằng, chuột mẹ bị bệnh có thể truyền cho con các kháng thể tiêu diệt (kháng thể chống insulin), vẫn được coi là biểu hiện đặc trưng của bệnh.
Giáo sư Naji giải thích, ở giai đoạn đầu, nhiều bệnh nhân đái tháo đường không hề có triệu chứng gì, cũng không có biến chứng liên quan tới bệnh. Khi đó, nồng độ kháng thể chống insulin trong máu chính là dấu hiệu chỉ điểm quan trọng nhất. Sự truyền kháng thể này từ mẹ sang con cũng đồng nghĩa với truyền bệnh. Khi nhận được kháng thể này từ mẹ, chuột con sẽ bắt đầu tiêu diệt các tế bào sản xuất insulin của chính mình.
Ngày nay cả hai phái nam và nữ mắc bệnh đái tháo đường type 1 đều có thể sinh sản bình thường. Tuy nhiên nếu một trong hai người bị bệnh đái tháo đường nhóm này thì con cái mang bệnh cùng loại có tỷ lệ 1% (thường phát bệnh từ 5-12 tuổi).
Nếu cả hai cha mẹ đều mắc bệnh đái tháo đường type 1 thì con cái họ có khả năng mắc bệnh này với tỷ lệ khoảng 10%.
Nếu một trong hai người bị bệnh đái tháo đường type 2 (không phụ thuộc insulin) thì con cái bị bệnh tiểu đường với tỷ lệ 20%, thông thường phải 40-60 tuổi

Tags: Benh vien noi tiet, bệnh viện nội tiết, benh vien noi tiet trung uong ha noi
Đái tháo đường là chứng bệnh có trị số đường huyết cao do hậu quả thiếu hụt insulin ở tuyến tụy. Dưới đây là những thắc mắc về căn bệnh vốn là đại dịch của xã hội hiện đại.

1. Người có bệnh ít bị sâu răng?
Sai.
Ngược lại, người bị tiểu đường có nguy cơ bị bệnh sâu răng “thăm hỏi” cao hơn những người bình thường nếu như họ không có một chế độ ăn uống hợp lý. Thủ phạm tạo cơ hội cho bệnh sâu răng phát triển chính là sự tập trung quá nhiều đường trong nước bọt.
Vì thế, vệ sinh răng miệng ở bệnh nhân tiểu đường cần được tuân thủ nghiêm ngặt: đánh răng sau khi ăn và kiểm tra răng miệng định kì (ít nhất 2 lần/năm).
2. Người bệnh không nên dùng thuốc tránh thai?
Đúng.
Đó là những viên thuốc có chứa estrogen, thành phần có khả năng làm tăng sự tập trung của đường và chất béo trong máu, cũng như làm tăng áp lực động mạch.
3. Người bệnh dễ suy sụp tinh thần và trầm cảm?
Đúng.
25-30% bệnh nhân tiểu đường bị suy sụt tinh thần trong khi chỉ có 15-17 % dân số còn lại mắc chứng suy sụp và trầm cảm.
4. Insulin làm tăng cân?
Sai.
Mặc dù hàm lượng đường trong máu ở người bị tiểu đường cao (trên 1,8g/l) nhưng lượng đường ấy lại nhanh chóng bị thải ra ngoài qua nước tiểu và năng lượng của từng ấy đường cũng bị mất đi. Khi người bệnh được kê đơn uống Insulin, đường huyết được cân bằng. Cơ thể giảm thiểu sự mất đường nên năng lượng do đường cung cấp được giữ lại.
Đấy chính là lý do gây tăng cân khi người đái tháo đường được điều trị với Insulin, chứ không phải Insulin làm tăng cân.
5. Người bệnh không nên hút thuốc?
Đúng.
Bỏ thuốc lá là nguyên tắc bắt buộc với người đái tháo đường. Hút thuốc lá làm tăng áp lực động mạch và nguy cơ bị nhồi máu cơ tim. Ngoài ra, nó còn tạo cơ hội thuận lợi cho bệnh thận “thăm hỏi”. Hơn thế, khi hút thuốc, người đái tháo đường cần tăng nhu cầu dùng Insulin và dễ bị kháng Insulin.
6. Người bệnh cần vận động thường xuyên?
Đúng.
Cơ bắp là nơi tiêu thụ đường lớn nhất trong cơ thể, nhất là khi chúng ta vận động. Sau mỗi bữa ăn, nhờ sự giúp sức của Insulin, 80% đường được dự trữ trong cơ bắp, chỉ còn 20% đường chuyển tới gan.
Khi thiếu các hoạt động thể dục thể thao, năng lượng do đường ở cơ bắp cung cấp không được đốt cháy. Đường bị tích trữ cùng với đường từ bữa ăn kế tiếp vẫn ở trong máu làm cho chỉ số đường huyết tăng cao. Vì thế, bệnh nhân tiểu đường cần duy trì thường xuyên các hình thức vận động cơ thể.
7. Bệnh tiểu đường không thể chữa khỏi?
Đúng.
Tiểu đường là bệnh mãn tính. Y học vẫn chưa chữa khỏi căn bệnh này nhưng nếu người bệnh có chế độ ăn uống hợp lý và duy trì thường xuyên các hoạt động thể dục thể thao có thể làm chậm quá trình tiến triển của bệnh.
8. Người bệnh khó liền vết thương?
Đúng.
Đường huyết cao làm quá trình liền da, liền sẹo ở bệnh nhân tiểu đường gặp khó khăn. Vì thế, nhiễm trùng, nhiễm khuẩn và bệnh nấm dễ dàng “ghé thăm” người bị tiểu đường. Và một khi đã “ghé thăm”, vi khuẩn và nấm sẽ phát triển rất nhanh nhờ được “chiêu đãi” no nê bởi đường trong máu.
9. Tiểu đường túyp 2 là bệnh di truyền?
Đúng.
Khoảng 30% bệnh nhân mắc bệnh do yếu tố di truyền trong gia đình (bố, hoặc mẹ hay chị gái hoặc em trai… bị tiểu đường). Bên cạnh yếu tố gia đình, yếu tố xã hội như thừa cân, béo phì, lối sống ít hoạt động thể lực… cũng là nguyên nhân gây ra căn bệnh này.

1. Định nghĩa và tính thường gặp
“ Đái tháo đường thai kỳ được định nghĩa là tình trạng không dung nạp carbohydrat được phát hiện lần đầu khi mang thai”
Các nghiên cứu kinh điển của Freinkel đã chứng minh ở người đái tháo đường thai kỳ, trong thời kỳ mang thai Insulin tăng tiết gấp 1,5 – 2 lần khi đáp ứng với nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống hay truyền tĩnh mạch. Rõ ràng là cả lượng insulin dự trữ lẫn khả năng đáp ứng bài tiết mới của tế bào bêta (β) đã bị giới hạn. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến  hiện tượng không dung nạp glucose ở người mẹ.
Các bất thường về chuyển hóa bao gồm tiết insulin mất cân đối và các tác động của nó đến quá trình thu nhận glucose, ngăn chặn sản xuất glucose ở gan và giảm tuyệt đối sử dụng glucose được insulin hoạt hóa.
Các nghiên cứu dịch tễ học về đái tháo đường thai kỳ phát hiện nhiều điểm chung, giống với đái tháo đường type 2. Những phụ nữ mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ có xu hướng hay gặp ở lớp người nhiều tuổi hơn (trên 25 tuổi), có thừa cân, béo phì so với những phụ nữ có dung nạp glucose bình thường khi mang thai. Cũng như đái tháo đường type 2 , tần suất mắc đái tháo đường thai kỳ tăng lên cùng với tuổi và chỉ số cơ thể (BMI) thường gặp hơn ở các quần thể không phải là da trắng. Trong các nghiên cứu khác nhau, nguy cơ tương đối tăng từ 1,6-3,5 lần ở người da đen, tăng 1,8 lần ở người có nguồn gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tăng 8,5 lần ở người sống vùng Đông Nam Á, tăng 10,9 lần ở người Đông Ấn và gấp 15 lần ở người Mỹ bản địa. Những phát hiện này cũng tương tự đối với tỷ lệ đái tháo đường typ 2 ở các nhóm chủng tộc tương ứng, cũng như về mối liên hệ với tuổi và sự béo phì. Những thay đổi về chuyển hóa ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ cũng có những đặc điểm phù hợp với đặc điểm của người đái tháo đường type 2.
Ở Việt Nam cũng đã có một vài nghiên cứu về vấn đề này. Lứa tuổi hay gặp của những sản phụ được chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ thường trên 35, thường gặp ở người thừa cân, béo phì (IBM trên 23). Đái tháo đường thai kỳ cũng hay gặp ở những phụ nữ đã từng sinh đẻ nhiều lần.
Ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ, nồng độ insulin huyết tương lúc đói tăng gấp 2 lần trong kỳ thai 3 tháng cuối so với sau đẻ. Đặc điểm này cũng tương tự như ở phụ nữ không bị đái tháo đường mang thai. Mức tăng tiết insulin tương đối trong nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ thấp hơn một cách có ý nghĩa so với phụ nữ mang thai có dung nạp glucose bình thường. Đáp ứng pha sớm của insulin ở người có đái tháo đường thai kỳ giảm thấp đến dưới 25% so với phụ nữ bình thường mang thai. Đáp ứng insulin pha muộn tăng tương tự người bình thường có thai và người đái tháo đường thai kỳ. Khả năng tiết insulin ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ nói chung thấp hơn so với phụ nữ có dung nạp glucose bình thường khi mang thai. Ở người bệnh đái tháo đường thai kỳ, đỉnh insulin xảy ra muộn hơn trong nghiệm pháp dung nạp glucose đường uốn. Hiện tượng này tương ứng với giảm đáp ứng insulin pha sớm trong nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường tĩnh mạch. Tiến hành nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống cho thấy, ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ luôn có mức insulin cao hơn so với sau khi đẻ và mức Insulin cao nhất thường gặp ở phụ nữ béo phì được chẩn đoán có đái tháo đường thai kỳ. Ngược lại mức tăng nhạy cảm của tế bào bêta (β) đối với các kích thích của các acid amin và glucose thấp hơn một cách có ý nghĩa ở những đối tượng này. Ở phụ nữ mang thai có dung nạp glucose bình thường, đáp ứng của Insulin với thức ăn giàu protein tăng lên rõ rệt so với phụ nữ đái tháo đường thai kỳ.
Ngày nay người ta biết rằng những rối loạn trong sự phát triển của đảo tụy thời kỳ bào thai và niên thiếu sẽ ảnh hưởng đến sự thăng bằng chuyển hóa và chức năng của tế bào bêta (β) ở giai đoạn sau của cuộc đời. Các tác giả Anh nhận thấy các đối tượng lúc sinh ở giai đoạn dưới một tuổi có cân nặng thấp, sẽ có nguy có bị đái tháo đường type 2 vào lứa tuổi trên 40Yếu tố môi trường và dinh dưỡng luôn có vai trò quyết định khuynh hướng phát triển của các rối loạn dung nạp glucose và đái tháo đường type 2. Điều này đã được chứng minh bởi số người mắc bệnh đái tháo đường type 2 đang tăng nhanh ở các nước châu Á, nơi đang có sự thay đổi nhanh mức tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự thay đổi “đột ngột” về mức sống và lối sống. Những số liệu về bệnh đái tháo đường trong quần những người gốc châu Á, châu Phi di cư đến sống ở các nước công nghiệp phát triển cao hơn người bản xứ, cũng là những chứng cứ khoa học ủng hộ cho nhận xét này.
Các nghiên cứu về mô bệnh học tụy của thai nhi mà mẹ bị bệnh đái tháo đường tháo đường hoặc bị đái tháo đường thai kỳ cũng thấy có hiện tượng kích thích sự tăng trưởng của tế bào bêta (β).
 2. Chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ
Các tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ còn là vấn đề trang cãi mặc dù đã có nhiều hội thảo quốc tế đề cập đến vấn đề này.
Trong nghiên cứu kinh điển, O’Sullvivan và Mahan (1964) đã tiến hành phân tích thống kê đáp ứng với glucose của cơ thể trong 3 giờ với nghiệm pháp 100g glucose bằng đường uống ở 752 phụ nữ mang thai khỏe mạnh. Những quan sát của họ thu được giá trị tương ứng với giá trị trung bình cộng trừ 2 lần độ lệch chuẩn (SD) ở các thời điểm cơ sở lúc đói, sau 1, 2 và 3 giờ. Bằng cách tự chọn mức dung nạp carbohydrat thấp hơn và cao hơn trung bình 2 SD là bất thường. Theo tiêu chuẩn này có 2,5% đối tượng được xác định là mắc đái tháo đường thai kỳ.
Các tiểu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ còn gây nhiều tranh cãi. Sau đây xin giới thiệu tóm tắt một số cơ sở xây dựng tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ.
 a. Chẩn đoán dựa trên cơ sở thống kê số liệu
Cách định nghĩa bệnh theo thống kê, ngay từ đầu, đã thấy được nhược điểm là chịu ảnh hưởng của tính khác biệt với từng quần thể. Đặc điểm này thể hiện ở các kết quả điều tra, tỷ lệ hiện mắc đái tháo đường thai kỳ dao động từ 0,5% (ở miền bắc nước Anh) đến 12,3% ở số dân thành phố (chủ yếu là người gốc Tây Ban Nha và da đen). Trong một tài liệu tổng quan về một nhóm nhiều dân tộc gồm 10.187  phụ nữ được sàng lọc theo tiêu chuẩn hóa về không dung nạp Glucose ở New York, tỉ lệ hiện mắc chung đái tháo đường thai kỳ là 3,2%. Tần suất đái tháo đường thai kỳ thấp nhất ở nhóm người da trắng, tiếp sau là người da đen, người gốc Tây Ban Nha, người nguồn gốc châu Á và cuối cùng là nhóm phụ nữ được xếp vào một nhóm chung –nhóm chủng/dân tộc khác.
Như vậy dùng phương pháp thống kê thuần túy để định nghĩa đái tháo đường thai kỳ là không thích hợp vì nó phụ thuộc vào nguy cơ tương đối của quần thể được nghiên cứu.
 b. Chẩn đoán dựa trên tỷ lệ bệnh tật liên quan
Một phương tiện thích hợp hơn để định nghĩa bệnh là dựa vào tỷ lệ bệnh tật liên quan. Tiêu chuẩn của O’Sulivan và Mahan đã chịu được thử thách thời gian như một yếu tố dự báo đái tháo đường xảy ra sau đó  ở người mẹ, với tỷ lệ mắc đái tháo đường là 50% sau 28 năm theo dõi ở những phụ nữ trong thời gian mang thai được chẩn đoán là đái tháo đường thai kỳ.
-  Tỷ lệ bệnh của mẹ cũng được phản ánh bằng sự tăng có ý nghĩa tỷ lệ mắc mới của tăng huyết áp và tiền sản giật do mang thai. Với sự quản lý tích cực hiện nay, nếu duy trì mức glucose máu bình thường, lúc đói và sau ăn, các biến chứng thường gặp trước đây ở mẹ như đa ối, đẻ non, các bất thường khác khi đẻ và chấn thương khi sinh không tăng lên ở nhóm đái tháo đường thai kỳ. Các hậu quả cấp tính chủ yếu của đái tháo đường thai kỳ tuy không/ hoặc ít tác động tới mẹ nhưng lại tác động đến bào thai.
- Tỷ lệ bệnh tật ở trẻ sơ sinh
Tỷ lệ bệnh tật ở trẻ sơ sinh của các phụ nữ đái tháo đường thai kỳ đã được thừa nhận từ lâu. Các biến chứng chuyển hóa bao gồm hạ glucose máu, hạ calci máu, thai to, tăng bilirubin máu thường xảy ra. Ngày nay nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật chăm sóc trẻ sơ sinh, rất khó chứng minh được sự thay đổi về tỷ lệ bệnh tật ở những đối tượng này. Tuy nhiên, các số liệu trước đây đã cho thấy, tỷ lệ tử vong tăng gấp 4 lần ở trẻ em của các bà mẹ được chẩn đoán có đái tháo đường thai kỳ. Song các ảnh hưởng đến trẻ em không chỉ giới hạn trong thời kỳ chu sinh mà còn rất lâu dài. Khi trưởng thành, những trẻ em này sẽ sớm phát triển kháng Insulin, dễ bị mắc bệnh thừa cân, béo phì, đặc biệt phần lớn trong số họ có một tỷ lệ cao không dung nạp glucose.
Như vậy, chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ và quản lý bệnh tích cực ở các bà mẹ không chỉ nhằm đảm bảo sức khỏe cho sản phụ mà còn làm giảm hoặc loại bỏ hẳn các biến chứng chu sinh, sơ sinh, thậm chí các biến chứng lâu dài ở con cái của họ. Vì thế nhiều nghiên cứu về vấn đề này đã được tiến hành nhằm đặt được một tiêu chí chẩn đoán hoàn hảo.
 c. Giới thiệu một số  tiêu chuẩn chẩn đoán
- Chẩn đoán xác định và chẩn đoán sàng lọc
Tiêu chuẩn được giới thiệu sau đây được áp dụng khá phổ biến ở Mỹ. Người ta cho những sản phụ mang thai tiến hành nghiệm pháp sàng lọc vào tuần thứ 24 đến 28 của thai kỳ. Sản phụ uống 50 gam glucose, nếu đường máu sau một giờ từ 7,8 mmol/l trở lên thì tiến hành nghiệm pháp 100 gam.
 Bảng tiêu chí chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ
Đường huyết tươngNFSL 50 gam GlucoseNFSL 100 gam Glucose
Lúc đói
5,83 mmol/l
Sau 1 giờ7,8 mmol/l10,56 mmol/l
Sau 2 giờ
9,2 mmol/l
Sau 3 giờ
5,3 mmol/l
 NFSL: Nghiệm pháp sàng lọc
Chẩn đoán dương tính nếu có từ 2 giá trị trên ngưỡng.
Tuy nhiên, tiêu chuẩn chẩn đoán này lại không  hề tính đến các kết cục ở trẻ sơ sinh. Với ý thức đó, nhiều nhà lâm sàng đã lên tiếng hỏi liệu tiêu chuẩn của O’Sulivan và Mahan có phải là quá lỏng lẻo để phát hiện và kết luận những người có nguy cơ mắc bệnh tật chu sinh liên quan đến không dung nạp carbohydrat?
Với nghi vấn này “ sự bất khả xâm phạm” của tiêu chuẩn chẩn đoán vốn được tin dùng bấy lâu nay đang bị nghi vấn.
Tiêu chuẩn nguyên gốc được dựa trên định lượng glucose ở máu toàn phần theo kỹ thuật Somogy, sau đó được nhóm Dữ liệu Đái tháo đường quốc gia Mỹ (NDDG) sửa đổi bằng cách sử dụng hệ số chuyển đổi bằng 1,14 để đại diện cho glucose huyết tương định lượng bằng kỹ thuật glucokinase. Carpenter và Coustan khuyến cáo sửa đổi sự chuyển đổi này để có tính đại diện hơn cho định lượng glucose huyết tương thực sự. Sự sửa đổi này dẫn đến hạ thấp tất cả các chỉ tiêu ở nghiệm pháp dung nạp Glucose 3 giờ.
* Các tiêu chuẩn của O’Sulivan/Mahan và các tiêu chuẩn chẩn đoán khác về đái tháo đường thai kỳ
Thời điểmTiêu chuẩn O’Sulivan/Mahan [mmol (mg/dl), huyết tương]Nhóm dữ liệu đái tháo đường quốc gia [mmol(mg/dl), huyết tương]Sửa đổi của Carpenter/Coustan
[mmol(mg/dl), huyết tương]
Đói5,0 (90)5,83(105)5,28(95)
1 giờ48,17(165)10,56(190)10,00(180)
2 giờ8,06(145)9,17(165)8,61(155)
6,96,94(125)8,06 (145)7,78(140)
* Tiêu chuẩn đái tháo đường thai kỳ bằng đường uống 75 gam Glucose
Thời điểmTổ chức y tế thế giới mg/dl (mmol/l )Hội nghiên cứu đái tháo đường châu Âu mg/dl (mmol/l )Hội thảo quốc tế đái tháo đường thai kỳ mg/dl (mmol/l )Australia mg/dl (mmol/l )Mose&cs mg/dl (mmol/l )
Đói--95(5,3)99(5,5)90(5,0)
1 giờ--180(10,0--
2 giờ140(7,8)162(9,0)155(8,6)144(8,0)140(7,8)
 3. Phương pháp áp dụng trong điều tra dịch tễ
a. Tiến hành
Trong điều tra dịch tễ người ta vẫn ưa dùng nghiệm pháp chẩn đoán mới với quy trình đơn giản như sau:
- Khám sàng lọc tất cả các đối tượng thuộc nhóm có yếu tố nguy cơ:
+ Tuổi ≥ 25.
+ BMI ≥ 23 trước khi có thai.
+ Tiền sử đái tháo đường thai kỳ.
+ Tiền sử đẻ con to từ 4000 gam trở lên (Với người Việt Nam từ 3600 gam).
+ Tiền sử sản khoa bất thường như xảy thai, thai chết lưu…
+ Tiền sử rối loạn dung nạp glucose (IGT) hoặc suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói (IFG).
- Tiến hành nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống vào buổi sáng sau một đêm nhịn đói.
Quy trình :
+ Lấy mẫu máu lúc đói để định lượng đường huyết.
+ Cho uống 75 gam glucose loại anhydrous hoặc 82,5 gam loại glucose monohydrat trong 250-300 ml nước trong 5 phút.
+ Lấy mẫu máu sau 2 giờ để định lượng glucose huyết tương.
b. Đánh giá:
- Đánh giá hai chỉ số theo bảng sau:
Đường máu (mmol/l)Bình thườngĐái tháo đường thai kỳ
Lúc đói<6,1≥ 6,1
Sau 2 giờ<7,8≥ 7,8
- Đánh giá ba chỉ số
Do những thiếu sót của các tiêu chuẩn đánh giá trên, nhiều tác giả khuyên nên định lượng và đánh giá glucose máu ở 3 thời điểm , ngay cả khi sử dụng nghiệm pháp 75 gam.
Nghiệm pháp
Tính theo mmol/l
Tính theo mg/dl
100 gam
Lúc đói
Sau 1 giờ
Sau 2 giờ
Sau 3 giờ
5,3
10,0
8,6
7,8
95
180
155
140
75 gam
Lúc đói
Sau 1 giờ
Sau 2 giờ
5,3
10,0
8,6
95
180
155
Ghi chú: Để  chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ phải có từ 2 tiêu chuẩn trở lên.
Chúng ta có thể thấy sự lúng túng trong xác định tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ. Xu hướng ngày nay người ta vẫn sử dụng tiêu chuẩn 75 gam trong điều tra dịch tễ nhiều hơn, vì nó đơn giản, dễ áp dụng.
Click để bắt đầu chia sẻ những bức ảnh vui!

Ủng hộ Fapfapvn nhé bạn ^^

Đinh Công Thành Blog